Chính phủ trong nền kinh tế thị trường

11 / 100
Chính phủ trong nền kinh tế thị trường
TCKT cập nhật: 21/01/2010
Nếu các thị trường và hệ thống thị trường là hiệu
quả, tại sao lại để cho chính phủ nhúng tay vào hoạt động của họ? Tại
sao họ không áp dụng một chính sách gọi là laissez-faire (chính sách để
mặc tư nhân tự kinh doanh- thị trường tự do) và cho phép các thị trường
tư nhân hoạt động không chịu bất cứ sự can thiệp nào của nhà nước? Có
một vài lý do mà các nhà kinh tế và các nhà quan sát xã hội khác đã xác
định có thể được minh họa với một vài ví dụ dưới đây. Tuy nhiên, trong
hầu hết các trường hợp, vai trò của chính phủ không phải là thay thế
thị trường, mà là cải thiện các chức năng của nền kinh tế thị trường.
Hơn nữa, bất cứ quyết định nào nhằm quy định hoặc can thiệp vào hoạt
động của các lực lượng thị trường (cung và cầu) đều phải được cân nhắc
cẩn thận giữa cái hại do các quy định đó đưa ra với lợi ích mà các can
thiệp đó đem lại.
Quốc phòng và hàng hóa công cộng
Quốc phòng là một ví dụ về vai trò không thể loại bỏ được của chính
phủ. Tại sao? Bởi vì việc phòng thủ cho một quốc gia là một dạng hàng
hóa hoàn toàn khác biệt so với cam, máy vi tính hay nhà ở: con người
không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hóa mà họ sử dụng mà phải mua
một tổng thể cho toàn bộ quốc gia. Cung cấp dịch vụ quốc phòng cho một
cá nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì
trên thực tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này
cùng nhau. Trên thực tế thì dịch vụ quốc phòng được cung cấp cho tất cả
dân chúng trong một quốc gia kể cả những người không muốn dịch vụ này,
bởi vì không có một cách làm hiệu quả nào khác. Chỉ có các quốc gia chứ
không phải là các làng xã hay các cá nhân có thể có đủ nguồn lực để sản
xuất máy bay chiến đấu phản lực.
Loại hình hàng hóa này gọi là hàng hóa công cộng, bởi vì không một
doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân
của một quốc gia mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh. Nó chỉ đơn
giản là không thể bán dịch vụ quốc phòng cho những người cần và không
bảo vệ những người từ chối thanh toán dịch vụ đó. Và nếu những người
này vẫn được bảo vệ mà không phải trả tiền thì tại sao họ phải chọn
cách thanh toán? Điều này được coi là vấn đề “kẻ ăn không”, và đó là lý
do chính giải thích vì sao chính phủ phải điều hành quốc phòng và dùng
thuế để chi cho quốc phòng.
Không có nhiều hàng hóa công cộng thực sự – những hàng hóa nhiều người
có thể cùng sử dụng và là đối tượng của vấn đề kẻ ăn không – do đó hầu
hết các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường đều có thể
được các công ty tư nhân sản xuất và bán trong các thị trường tư nhân.
Các ví dụ khác về hàng hóa công cộng có thể kể đến là chương trình kiểm
soát lũ lụt và sâu bọ, và thậm chí cả băng tần sóng phát thanh và
truyền hình được phát sóng rộng rãi trong không trung. Mỗi hàng hóa này
đều có thể được nhiều người tiêu dùng sử dụng cùng lúc, và cũng là đối
tượng để những kẻ ăn không hưởng thụ, ít nhất ở một mức độ nào đó. Tuy
nhiên, với sóng phát thanh và truyền hình, các chương trình có thể được
các cá nhân sản xuất và thu lợi bằng cách bán thời gian phát sóng cho
quảng cáo. Hoặc trong một vài trường hợp khác, các tín hiệu phát sóng
hiện đã được đổi tần số điện tử để các công ty tư nhân có thể kiếm tiền
bằng cách cho thuê các thiết bị giải mã cho những người muốn xem các
chương trình này.
Ô nhiễm và chi phí ngoại sinh
Hãy lấy một ví dụ về một công ty sản xuất các sản phẩm giấy – từ giấy
viết đến thùng các-tông – tại một nhà máy bên cạnh một con sông. Vấn đề
là nhà máy đã đổ xuống sông các hóa chất ô nhiễm là sản phẩm phụ từ quá
trình sản xuất. Nhưng không có một cá nhân hay một pháp nhân nào sở hữu
nước sông nên không có ai buộc nhà máy phải ngừng gây ô nhiễm. Hơn nữa,
do việc làm sạch dòng sông sẽ tốn tiền, nên công ty có thể bán các sản
phẩm giấy rẻ hơn trường hợp họ phải chịu các chi phí kiểm soát ô nhiễm
như vậy. Kết quả là, công ty giấy có thể tăng sản lượng do cầu tương
đối cao hơn tại mức giá thấp hơn, và nhà máy càng có nhiều chất thải và
ô nhiễm hơn. Bằng cách gây ô nhiễm mà không chịu một hình phạt nào,
công ty cũng có thể có lợi thế không công bằng so với các đối thủ cạnh
tranh, những người mà sản phẩm giấy của họ bao gồm cả chi phí lắp đặt
các thiết bị kiểm soát ô nhiễm.
Đây là một ví dụ cổ điển về cái gọi là chi phí ngoại sinh không được
phản ánh trong giá cả thông qua hoạt động bình thường của thị trường.
Cả công ty giấy lẫn các khách hàng của họ đều không chịu chi phí thực
sự của việc sản xuất giấy; thay vào đó một phần chi phí – yếu tố ô
nhiễm – được chuyển sang những người sống hoặc làm việc dọc dòng sông,
và những người trả thuế là những người thực tế phải thanh toán các hóa
đơn vệ sinh.
Giống như những yếu tố ngoại sinh khác, ô nhiễm cũng thường xuất hiện ở
những nơi mà quyền sở hữu một nguồn lực – trong trường hợp này là dòng
sông – không do một cá nhân hoặc một tổ chức tư nhân nắm giữ. Ví dụ,
đất công và lề đường thường bị xả rác nhiều hơn là bãi cỏ trước cửa nhà
riêng, bởi vì không ai sở hữu những khoảng đất công này và chịu trách
nhiệm giữ vệ sinh cho chúng, hay buộc tội những người chiếm đoạt chúng.
Trên thực tế, hầu hết ô nhiễm đều bị thải vào không khí, đại dương và
các dòng sông bởi vì không có cá nhân nào sở hữu các nguồn lực đó có đủ
động cơ cá nhân để bắt những người gây ô nhiễm chịu trách nhiệm về
những thiệt hại họ gây ra. Mặc dù có một số người bỏ thời gian và chịu
rắc rối để khởi kiện những người gây ô nhiễm, thì hầu hết những người
khác có rất ít động lực kinh tế để làm điều đó.
Vai trò của chính phủ trong vấn đề này là cố gắng hiệu chỉnh sự mất cân
bằng đó. Bằng cách can thiệp, chính phủ buộc những người sản xuất và
tiêu dùng sản phẩm đó phải thanh toán cho những chi phí vệ sinh này.
Thực chất, vai trò kinh tế này của chính phủ chỉ đơn giản là khiến
những người hưởng lợi từ việc bán và tiêu dùng sản phẩm phải trả cho
tất cả các chi phí sản xuất và tiêu dùng chúng.
Thật không may là hiếm khi chính phủ có thể dễ dàng xác định số tiền
cần phạt là bao nhiêu trong những trường hợp này. Một lý do là rất khó
và rất tốn kém để có thể xác định chính xác nguồn ô nhiễm hay xác định
chính xác trị giá những thiệt hại mà ô nhiễm gây ra cho xã hội. Do
những khó khăn này nên chính phủ phải chắc chắn rằng họ không lấy mức
chi phí để giảm ô nhiễm cao hơn thiệt hại mà ô nhiễm gây ra cho xã hội.
Để làm được như vậy rõ ràng là không hiệu quả và lãng phí các nguồn lực
giá trị.
Một khi chính phủ đã xác định được một mức ô nhiễm có thể chấp nhận
được, hoặc ít nhất là có thể chịu đựng được, họ có thể sử dụng luật
pháp, các quy định, tiền phạt, kết án tù, thậm chí cả những khoản thuế
đặc biệt để làm giảm ô nhiễm. Hoặc thậm chí về cơ bản, họ có thể cố
gắng thiết lập quyền sở hữu rõ ràng hơn đối với các nguồn lực đang bị ô
nhiễm, điều này sẽ dẫn đến tính giá cho việc sử dụng các nguồn lực với
mức giá dựa trên thị trường, và buộc những người gây ô nhiễm chi trả
các chi phí đó. Giữa những lựa chọn này, điểm mấu chốt là hiểu được vai
trò cơ bản của chính phủ – khắc phục tình trạng sản xuất quá mức và
tiêu dùng quá mức các hàng hóa và dịch vụ làm nảy sinh các chi phí
ngoại sinh.
Kiểm soát ô nhiễm dựa trên thị trường
Vấn đề kiểm soát ô nhiễm là một ví dụ nổi bật về cách chính phủ trong
một nền kinh tế thị trường có thể khai thác cơ chế cung-cầu để giải
quyết một vấn đề quan trọng mà toàn bộ xã hội phải đương đầu.
Khi đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí, nước hoặc đất đai, chính phủ
có một số lựa chọn để cân nhắc nhằm cân bằng giữa nhu cầu có một môi
trường sạch hơn với các chi phí kinh tế của việc làm sạch môi trường.
Trường hợp đầu tiên, giả sử người ta phát hiện ra một chất ô nhiễm nhất
định rất độc hại và không thể khử độc được bằng cách áp dụng các quá
trình sản xuất hoặc bảo vệ mới. Trong điều kiện này, chính phủ có thể
hành động đúng đắn khi ban hành các quy định trực tiếp đòi hỏi phải
loại bỏ hoàn toàn hoặc giảm mạnh lượng chất thải sao cho nó không còn
là mối đe dọa đối với sức khỏe con người hoặc môi trường nữa. Tuy
nhiên, một chương trình như vậy đòi hỏi chi phí xã hội rất cao.
Đối với các chất ít nguy hiểm hơn, mặc dù mức độ ô nhiễm sẽ được cắt
giảm nhưng việc triệt bỏ hoàn toàn có thể khiến phát sinh mức chi phí
cao không hợp lý dưới dạng mất mát sản xuất, tiêu dùng và việc làm.
Trong hoàn cảnh này, cách làm hiệu quả hơn là đánh thuế đối với việc
gây ô nhiễm thay vì đòi hỏi giảm ô nhiễm cụ thể ở tất cả các địa điểm
sản xuất.
Lý do đơn giản là chi phí làm sạch môi trường sẽ biến đổi rất lớn tùy
theo các địa điểm sản xuất khác nhau và các công ty khác nhau. Bằng
cách đánh thuế những người gây ô nhiễm, chính phủ sẽ khiến các hãng có
khả năng giảm thải ô nhiễm với chi phí tương đối thấp sẽ thực hiện điều
đó và do vậy họ sẽ không phải trả thuế ô nhiễm. Những hãng nào thấy
việc giảm bớt ô nhiễm sẽ quá tốn kém (thường là những hãng có nhà máy
và trang thiết bị cũ kỹ) sẽ thấy hợp lý hơn khi chọn cách tiếp tục gây
ô nhiễm và trả thuế cho những gì họ thải ra. Chính phủ cũng có thể có
ảnh hưởng đến các thay đổi này bằng cách khuyến khích người tiêu dùng
sử dụng những sản phẩm không gây ô nhiễm. Hỗ trợ thuế cho những người
mua các phương tiện kết hợp sử dụng gas và điện và các hệ thống lò sưởi
nhà riêng sử dụng năng lượng mặt trời chỉ là hai ví dụ ở Hoa Kỳ. Có một
số sáng kiến khác đang được triển khai ở Mỹ nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp và các nhà máy giảm phế thải một cách tự nguyện.
Có lẽ cách thức tiếp cận sáng tạo nhất đối với thách thức giảm ô nhiễm
lại hoàn toàn không liên quan đến chính phủ mà nằm trong chính thị
trường. Những chương trình được gọi là “cap and trade” (mua bán hạn
ngạch ô nhiễm) đã được chứng minh là rất thành công ở Mỹ, tạo ra mức
giảm rất đáng kể các chất ô nhiễm như điôxit sunphua (SO2, một thành
phần tạo nên mưa axít). Theo hệ thống này, Chính phủ chỉ phải xác định
tổng mức ô nhiễm cho phép ở từng khu vực, sau đó bán đủ giấy phép chỉ
trong mức phế thải cho phép. Bất cứ kế hoạch thuế nào cũng trở nên
không cần thiết. Những giấy phép này có thể được trao đổi với giá cả tự
do lên xuống phản ánh các điều kiện kinh tế và môi trường khác nhau. Cơ
quan Bảo vệ Môi trường, hoạt động theo hướng dẫn quy định của Chương
trình Mưa Axít, đã đặt giới hạn cho việc giảm phóng thải chất SO2. Đối
với những công ty có thể giảm phế thải đến mức giới hạn và thấp hơn thì
sẽ được “thưởng hạn ngạch ô nhiễm”. Các công ty này sau đó có thể bán
hạn ngạch thưởng này cho các công ty khác không có đủ khả năng thực
hiện mức giảm như vậy. Kết quả là việc phóng thải chất SO2 ở Mỹ đã giảm
hơn 6,5 triệu tấn kể từ năm 1980 mặc dù vẫn còn khoảng hai triệu đô-la
Mỹ dưới dạng thưởng hạn ngạch SO2 trên thị trường. Một lợi ích tương
đương là chi phí cho các ngành công nghiệp thực hiện chương trình này
đã giảm thấp hơn mức dự tính ban đầu của Chính phủ.
Tuy nhiên hệ thống hạn ngạch này vẫn phải phụ thuộc vào sự can thiệp
của Chính phủ. Hiện tại thế hệ tiếp theo của các giải pháp dựa trên thị
trường đã bắt đầu – một hệ thống “cap and trade” tự nguyện nhằm giải
quyết vấn đề của sáu “khí gas nhà kính” như điôxit cacbon (CO2). Thị
trường này đặt trụ sở tại Chicago và do 14 công ty đầu ngành của Mỹ
thành lập như Ford Motor và Motorola. Những công ty này thỏa thuận sẽ
tự nguyện giảm phế thải và bắt đầu quá trình trao đổi thưởng hạn ngạch.
Nói về động cơ của Chương trình Trao đổi Khí hậu Chicago, Tổng Giám đốc
Điều hành Richard Sandor cho rằng – “người ta ngày càng mong muốn thị
trường cho phép họ được giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường… tất
cả chúng tôi đều tin rằng sử dụng hiệu quả năng lượng là rất tốt cho
kinh doanh”.
Giáo dục và lợi ích ngoại sinh
Khi Robert quay trở lại trường học lập trình máy tính, anh ta đang tìm
kiếm cách cải thiện cho chính mình và gia đình chứ không cần thiết phải
cải thiện cho cả một cộng đồng lớn. Nhưng kết quả từ sự nâng cao học
vấn của anh ta là Robert trở thành một thành viên hữu ích và được đào
tạo cao hơn trong cộng đồng của anh. Anh ta hiện giờ có những kỹ năng
mới và đã xây dựng được một doanh nghiệp mới tạo cơ hội và việc làm cho
những người khác.
Như vậy, học vấn của Robert đã làm lợi cho những người khác, điều này
khác với quan hệ giữa những người sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và
dịch vụ. Giáo dục thường được coi là đưa lại những lợi ích ngoại sinh
cho một quốc gia do những nhân công có học vấn thường linh hoạt và năng
suất hơn, và chắc chắn là ít khả năng thất nghiệp hơn. Điều này có
nghĩa là chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục ngày hôm nay có thể sẽ dẫn đến
những khoản tiết kiệm của xã hội và cá nhân không phải chi tiêu vào
việc phòng chống tội phạm, nghèo đói và các vấn đề xã hội khác, cũng
như tăng mức độ kỹ năng, tính linh hoạt và năng suất của lực lượng lao
động.
Mở rộng ra, bất cứ sản phẩm nào đưa lại những lợi ích ngoại sinh đáng
kể hoặc lợi ích vượt trội thì chính phủ có thể xem xét đến việc trợ cấp
hoặc khuyến khích tiêu dùng, sản xuất sản phẩm đó để giá trị của các
lợi ích ngoại sinh đó có thể được tính bằng giá cả thị trường và sản
lượng đầu ra của các sản phẩm đó. Trong khi chi phí ngoại sinh sẽ dẫn
đến việc sản xuất dư thừa một số hàng hóa nhất định thì việc tồn tại
lợi ích ngoại sinh sẽ dẫn đến việc sản xuất dưới mức cầu các hàng hóa
và dịch vụ khác.
Giáo dục công lập có lẽ là ví dụ lớn nhất và đặc trưng nhất về chi tiêu
và trợ cấp của chính phủ cho một dịch vụ được xem là có lợi ích ngoại
sinh đáng kể. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp chính phủ can thiệp
ấn định giá thông qua trợ cấp hoặc thuế để khuyến khích các lợi ích
ngoại sinh đó. Nhìn chung, việc mở rộng quyền tài sản và một hệ thống
giá cả dựa trên thị trường có thể là công cụ hữu hiệu nhất để chính phủ
có thể điều chỉnh sự mất cân bằng do chi phí và lợi ích ngoại sinh gây
nên.
Khuôn khổ pháp lý và xã hội
Các nền kinh tế thị trường không phải giấy phép cho sự bóc lột hay trộm
cắp, mặc dù có những ví dụ rõ ràng về sự lạm dụng. Trên thực tế, có rất
ít các trao đổi trên thị trường được thực hiện trong xã hội nơi không
thừa nhận và bảo vệ rõ ràng quyền hợp pháp của người tiêu dùng và người
sản xuất được sở hữu và kinh doanh các nguồn lực kinh tế. Điều này giải
thích vì sao chính phủ trong các nền kinh tế thị trường lưu hồ sơ về
các cuộc trao đổi đất đai và nhà cửa và buộc thực hiện các hợp đồng
giữa người mua và người bán của tất cả các loại hàng hóa. Người mua
muốn biết rõ ràng hàng hóa họ mua thực sự thuộc sở hữu của người bán,
và cả người mua lẫn người bán đều muốn biết rõ rằng khi họ đồng ý trao
đổi một số sản phẩm thì chắc chắn hợp đồng sẽ được thực hiện. Điều này
cũng đúng đối với công nhân, dù người đó là công nhân độc lập hay trong
một công đoàn, đồng ý với mức lương và điều kiện làm việc với chủ lao
động. Nếu các đảm bảo này không được thực hiện thường xuyên và hiệu
quả, và nếu không có một hệ thống xét xử tội phạm công bằng và hợp lý
thì việc hoàn thành các giao dịch thị trường trở nên tốn kém và khó
khăn hơn.
Chính phủ trong các nền kinh tế thị trường phải thiết lập và bảo vệ
quyền sở hữu cá nhân và các khoản thu kinh tế từ việc sử dụng các tài
sản đó. Nếu không có các đảm bảo như vậy, sẽ không có ai mạo hiểm thời
gian và tiền bạc của mình vào các doanh nghiệp mà thành quả của nó có
thể bị nhà nước hoặc một số nhóm khác chiếm hữu. Ví dụ, khi Robert và
Maria dự định bắt đầu Công ty Phần mềm Giáo dục R&M, họ biết rằng
họ đang phải chịu các rủi ro thua lỗ về kinh tế; nhưng họ cũng biết
rằng nếu họ thành công, luật bảo vệ tài sản cá nhân sẽ cho phép họ được
hưởng các thành quả kinh tế từ thành công đó.
Sự bảo hộ của chính phủ đối với tài sản cá nhân rõ ràng đã mở rộng sang
cho cả đất đai, nhà máy, cửa hàng và các của cải vật chất khác, nhưng
nó cũng mở rộng sang các tài sản gọi là sở hữu trí tuệ: các sản phẩm từ
trí óc con người được thể hiện qua sách và các văn bản khác, nghệ thuật
tạo hình, điện ảnh, các phát minh khoa học, các thiết kế kỹ thuật, các
dược phẩm và các chương trình phần mềm máy tính. Sẽ không có doanh nhân
hoặc công ty nào đầu tư vào các nghiên cứu thường là tốn kém và đòi hỏi
nhiều thời gian để tìm ra các loại thuốc mới chữa bệnh, các chương
trình máy tính mới, hoặc thậm chí để phát hành các cuốn tiểu thuyết mới
nếu các công ty đối thủ có thể đơn giản bắt chước và đem bán các công
trình của họ mà không phải trả tiền bản quyền hay các khoản phí khác
phản ánh trong chi phí sản xuất của họ.
Nhằm bảo vệ và khuyến khích các nhà khoa học và nghệ sĩ, chính phủ ban
hành các đặc quyền, hay còn gọi là bản quyền, để bảo vệ các loại hình
tài sản trí tuệ nhất định như sách, âm nhạc, điện ảnh và các chương
trình phần mềm máy tính; hoặc còn gọi là bằng sáng chế khi họ bảo vệ
các loại hình khác như phát minh, thiết kế, sản phẩm và các quy trình
sản xuất. Những quy định này trao cho chủ sở hữu, bất kể là cá nhân hay
công ty, độc quyền bán hoặc dùng cách khác để đưa ra thị trường các sản
phẩm và sáng tạo của họ trong một khoảng thời gian cụ thể. Như Tổng
thống Abraham Lincoln đã nói, những quyền này đã thêm “năng lượng của
lợi ích vào ngọn lửa của thiên tài”.
Khi quy định và thực thi quyền sở hữu cũng như duy trì một hệ thống
luật pháp hiệu quả, chính phủ có thể xây dựng một môi trường xã hội cho
phép các thị trường tư nhân của hầu hết các hàng hóa và dịch vụ có thể
hoạt động hiệu quả và với sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng.
Cạnh tranh
Mỗi tháng, Robert và Maria thường thanh toán các hóa đơn cho công ty
cấp nước địa phương. Không giống như hầu hết các doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế thị trường, công ty cấp nước không phải cạnh tranh
với các doanh nghiệp đối thủ khác trong việc cung cấp nước.
Công ty cấp nước được gọi là “độc quyền tự nhiên” bởi vì chỉ một công
ty cấp nước là có tính kinh tế nhất. Cho phép có hai hệ thống nước,
hoặc hai hệ thống dây điện hoàn toàn tách biệt trong trường hợp của hai
công ty điện lực, sẽ là lãng phí và rất không hiệu quả. Thay vì phải
kiểm soát chi phí và tối đa hóa hiệu quả thông qua cạnh tranh, các cơ
quan chính phủ quy định mức giá và các dịch vụ của các công ty này nhằm
đảm bảo rằng họ đưa ra các mức giá tốt nhất có thể đối với khách hàng
và vẫn nhận được mức doanh thu thỏa đáng cho khoản đầu tư của họ.
Số các công ty độc quyền tự nhiên như vậy thực sự rất ít và chỉ chiếm
một phần nhỏ trong các hoạt động kinh tế ở hầu hết các nền kinh tế thị
trường. Một vấn đề phổ biến hơn và nhìn chung phức tạp hơn phát sinh
khi một ngành nghề chỉ do một vài công ty lớn khống chế. Thực sự sẽ
nguy hiểm nếu những công ty này cấu kết với nhau để đặt mức giá cao hơn
và hạn chế các công ty cạnh tranh mới gia nhập thị trường. Để ngăn chặn
những sự độc quyền và các hành vi cấu kết đó, và để duy trì mức cạnh
tranh hiệu quả hơn trong hệ thống kinh tế, các bộ luật gọi là chống độc
quyền được ban bố trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, kể cả ở Hoa
Kỳ.
Cạnh tranh có giới hạn có thể xảy ra ở một vài ngành nghề, ví dụ như
hàng không, do mức cầu của thị trường chỉ đủ cho một số công ty lớn có
các công nghệ sản xuất hiệu quả nhất cho các sản phẩm như vậy. (Tuy
nhiên, các sự kiện bất ngờ như vụ tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001 và
sự xuất hiện của các hãng vận tải nhỏ chi phí thấp “không cầu kỳ trong
dịch vụ” đe dọa các hãng truyền thống hàng đầu trên thị trường). Do đó
các nhà hoạch định chính sách phải quyết định xem liệu sự cạnh tranh
giữa một số ít các công ty lớn sản xuất các sản phẩm như vậy có thích
hợp để giữ giá cả và lợi nhuận thấp xuống mức hợp lý và giữ chất lượng
sản phẩm cao. Nếu không, họ có thể lại phải sử dụng các quy định về giá
cả và dịch vụ hoặc chia nhỏ một cách hợp pháp các công ty lớn thành các
công ty nhỏ hơn, nếu có thể thực hiện điều đó mà về cơ bản không tăng
chi phí sản xuất lên. Nếu thất bại trong việc này, các nhà hoạch định
chính sách ít nhất cũng có thể khiến việc các công ty lớn này cấu kết
với nhau là bất hợp pháp, và cưỡng chế thực hiện các điều luật này nhằm
đảm bảo rằng càng có nhiều cạnh tranh trực tiếp giữa các công ty này
càng tốt.
Thật không may là nhiều quy định và chính sách chống độc quyền của
chính phủ thực sự đã làm giảm thay vì gia tăng sự cạnh tranh. Các chính
sách này bao gồm các giấy phép độc quyền để sản xuất một hàng hóa hoặc
dịch vụ, thuế, hạn ngạch nhằm hạn chế hàng hóa và dịch vụ nước ngoài
nhập khẩu vào nội địa, và các yêu cầu về giấy phép hành nghề và lệ phí
cho người lao động có tay nghề và chuyên môn. Một số trong các chính
sách này, ví dụ như cấp bằng sáng chế và bản quyền có thể được biện
minh bằng các cơ sở kinh tế khác. Tuy nhiên, các hạn chế khác không
thật thích đáng và được áp dụng chỉ bởi vì chúng mang lại lợi ích lớn
hơn cho số ít thành viên của các nhóm nhỏ có quyền lợi đặc biệt. Do
thiệt hại gây ra bởi các hạn chế này được phân tán rộng rãi cho phần
còn lại của toàn dân nên chúng không thu hút hoặc thu hút rất ít sự
phản đối của công luận.
Cân nhắc cho kỹ thì mặc dù còn nhiều thiếu sót nhưng điểm nhất trí
chung của các nhà kinh tế học về nền kinh tế thị trường là chúng ta sẽ
phải trả giá đắt nếu cho phép các hãng lớn (hoặc là một nhóm các hãng
cố kết với nhau) đạt được vị trí độc quyền trong một số ngành chủ chốt.
Cài giá này đủ lớn để giải thích cho việc chính phủ phải có một vai trò
giới hạn trong việc xây dựng các luật lệ và quy định để duy trì sự cạnh
tranh.
Thu nhập và phúc lợi xã hội
Trong một nền kinh tế thị trường, một số người không có các khả năng
hoặc các nguồn lực khác để kiếm sống. Trái lại, một số khác lại được
hưởng nhiều lợi lộc vì thừa hưởng tài sản hay có tài năng, hoặc do họ
biết kết hợp với gia đình và bạn bè về mặt kinh doanh, chính trị hay xã
hội.
Chính phủ trong các nền kinh tế thị trường chắc chắn sẽ can thiệp bằng
các chương trình tái phân phối thu nhập, và thường hành động với ý định
khá rõ ràng là dùng các chính sách thuế để vấn đề phân phối thu nhập
sau thuế trở nên công bằng hơn.
Những người đề xướng việc tái phân phối mở rộng cho rằng vai trò này
của chính phủ khi làm như vậy là nhằm hạn chế việc tập trung tài sản và
duy trì sự phân chia quyền lực kinh tế rộng rãi giữa các hộ gia đình,
cũng như luật chống độc quyền được thiết kế để duy trì cạnh tranh và
phân chia quyền lực và các nguồn lực rộng rãi hơn giữa các nhà sản
xuất. Còn những người chống lại các chương trình tái phân phối lớn lại
phản đối rằng thuế gia tăng đối với các gia đình có thu nhập cao sẽ làm
giảm động cơ làm việc, tích lũy và đầu tư của các nhóm này, và như vậy
là làm tổn hại đến toàn bộ nền kinh tế.
Những tranh luận về tái phân phối thu nhập đều dựa trên quan điểm cơ
bản của con người về thế nào là công bằng và hợp lý. Và trong lĩnh vực
này, cả các nhà kinh tế học lẫn các chuyên gia khác nghiên cứu về vấn
đề này đều chưa có lập trường nào đặc biệt.
Tất cả những gì mà họ có thể làm là tập hợp tài liệu về những gì đã xảy
ra đối với việc phân phối thu nhập và tài sản qua thời gian trong các
hệ thống kinh tế khác nhau, và sử dụng các thông tin đó để cố gắng xác
định các chính sách khác nhau ảnh hưởng như thế nào đến các biến số như
mức sản lượng, mức tích lũy và đầu tư quốc gia.
Trong thế kỷ này, mọi người đã dần dần cùng nhất trí rằng chính phủ
trong hầu hết các nền kinh tế thị trường, vì lòng trắc ẩn và tính công
bằng, nên có trách nhiệm hỗ trợ cho các gia đình nghèo túng nhất trong
nước và giúp họ cố gắng thoát khỏi cuộc sống đói nghèo. Chính phủ trong
tất cả các nền kinh tế thị trường thực sự đều hỗ trợ cho những người
thất nghiệp, chăm sóc y tế cho người nghèo và trợ cấp hưu trí cho người
nghỉ hưu. Toàn bộ các chương trình này tạo thành cái gọi là “mạng lưới
an sinh xã hội”.
Trong 40 năm qua, các chương trình xã hội này đã chiếm một phần ngày
càng tăng trong chi tiêu của chính phủ và các chương trình thuế tại hầu
hết các nước công nghiệp hóa. Do vậy ngày nay người ta không còn tranh
luận xem các chương trình này có nên tồn tại hay không, mà là về mức độ
mở rộng của chúng và cần phải quản lý chương trình tái phân phối thu
nhập như thế nào để vẫn giữ được những động cơ cá nhân kích thích con
người làm việc và tích lũy.
Phân phối thu nhập và huy động vốn
Tại tất cả các quốc gia công nghiệp có nền kinh tế thị trường như Hoa
Kỳ, nguyên nhân cơ bản của sự chênh lệch trong thu nhập hàng năm của
các gia đình là sự chênh lệch về lương và tiền công. Khoảng ba phần tư
mọi thu nhập là từ lương và tiền công – một phần tư còn lại được phân
chia giữa các khoản cho vay, lợi nhuận và các khoản thanh toán lợi tức.
Mô hình phân phối thu nhập tổng thể vẫn ổn định trong hầu hết các nền
kinh tế thị trường kể từ cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Theo Cục
Điều tra Dân số Hoa Kỳ, ở Mỹ, 20% các gia đình có thu nhập cao nhất
nhận được khoảng 49% tổng thu nhập của nền kinh tế, 20% các gia đình có
thu nhập cao thứ hai nhận được khoảng 23%, còn 20% các gia đình trung
lưu nhận khoảng 15%, còn lại 20% các gia đình có thu nhập gần thấp nhất
chiếm 8% thu nhập và 20% gia đình có thu nhập thấp nhất chỉ chiếm 3%
tổng thu nhập của quốc gia.
Các con số này không phản ánh được một thực tế là những người có thu
nhập cao phải trả thuế cao hơn những người có thu nhập thấp, hoặc rất
nhiều các gia đình có thu nhập thấp được hưởng lợi từ các chương trình
hỗ trợ của chính phủ như phiếu lương thực và trợ cấp thuê nhà. Việc
điều chỉnh sự chênh lệch này sẽ tăng phần được hưởng trong tổng thu
nhập quốc gia cho 20% các gia đình nghèo nhất lên khoảng 5% và giảm
phần hưởng trong tổng thu nhập của các gia đình có thu nhập cao nhất
xuống khoảng 46%. Nhưng đây vẫn là một mức chênh lệch rất lớn về thu
nhập và nhiều người vẫn thắc mắc vì sao lại có điều này.
Còn một số lý do để giải thích sự chênh lệch về thu nhập này của các
gia đình ngoài sự khác biệt về lương và tiền công cơ bản như đã nói ở
trên và giải thích vì sao có sự thay đổi lên xuống theo thời gian trong
thu nhập của các gia đình khác nhau. Ví dụ, các công nhân vừa mới gia
nhập thị trường lao động (điển hình là những công nhân trẻ ít kinh
nghiệm làm việc) và các công nhân già hơn đã nghỉ hưu hoặc chỉ nhận các
công việc bán thời gian thường là đại diện thường xuyên của nhóm các
gia đình có thu nhập thấp nhất, và điều này không gây nhiều ngạc nhiên.
Hầu hết các công nhân – và đặc biệt là những người có học vấn và được
đào tạo cao hơn – có thu nhập tăng hàng năm theo nghề nghiệp của họ.
Những công nhân khác đôi khi bị giảm lương hoặc tiền công tạm thời khi
họ tạm nghỉ việc ngắn hạn, bị ốm đau hoặc là thương tích hay các lý do
khác.
Vì tất cả những lý do này, và mặc dù có sự ổn định cơ bản trong việc
phân phối thu nhập nói chung, vẫn tồn tại một cơ hội lớn trong việc huy
động vốn trong nền kinh tế thị trường. Điều này có nghĩa là chúng ta
luôn nhìn thấy các gia đình tăng hoặc giảm các khoản thu nhập trên của
họ qua từng năm. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy chỉ trong vòng bảy năm,
hơn một nửa số gia đình vốn từng có thu nhập nằm trong số 20% các gia
đình Mỹ có thu nhập cao nhất đã trượt xuống các thứ hạng thấp hơn, và
6% đã trượt xuống nằm trong số 20% gia đình có thu nhập hàng năm thấp
nhất. Cũng trong bảy năm đó, gần một nửa (45%) các gia đình trước đây
nằm trong số các gia đình có thu nhập thấp nhất đã chuyển lên các nhóm
có thu nhập cao hơn; gần 4% trong số đó thậm chí đã nhập vào nhóm 20%
các gia đình có thu nhập cao nhất.
Trong những thời kỳ dài hơn, người ta thấy rằng hầu hết con cái của
những ông bố bà mẹ giàu có thường có mức thu nhập cao hơn trung bình,
nhưng xét bình quân, mức thu nhập của họ sẽ gần như không cao bằng thu
nhập của bố mẹ họ. Tương tự, hầu hết con cái của những người nghèo hơn
thường có thu nhập trung bình thấp, nhưng không thấp hơn nhiều so với
mức trung bình thu nhập của bố mẹ họ. Qua ba thế hệ, tức là nói về thế
hệ cháu của những người giàu hoặc nghèo hôm nay, hầu hết tất cả các lợi
thế hoặc bất lợi về thu nhập của họ đã biến mất. Kết quả này chắc chắn
không đúng với tất cả các gia đình giàu hoặc nghèo, nhưng đúng với phần
đông trong số họ.
Bằng chứng thống kê này đã chứng minh hai điều quan trọng: Một là, thị
trường lao động và các yếu tố sản xuất khác là mở và linh hoạt đủ để
đưa lại sự tự do và các cơ hội đáng kể cho hầu hết công nhân trong các
nền kinh tế thị trường – thậm chí cho phần lớn những người có thu nhập
thấp nhất trong một số năm. Tuy nhiên, điều thứ hai là mặc dù có các cơ
hội này nhưng những bước thay đổi trong các nền kinh tế thị trường hiện
nay nhanh đến nỗi một số công nhân bị tụt hậu, đòi hỏi các chương trình
hỗ trợ và đào tạo được thiết kế cẩn thận để đưa họ trở lại thị trường
lao động cạnh tranh hoặc ít nhất là giúp họ duy trì một mức sống tạm
được.
Kể từ thập kỷ 1930 và cuộc Đại khủng hoảng, chính phủ ở tất cả các nền
kinh tế thị trường lớn đã phản ứng với các thách thức này bằng cách đưa
ra các chương trình hỗ trợ thu nhập mở rộng cho các gia đình có thu
nhập thấp. Mức độ và hình thức của các hỗ trợ này vẫn còn là các vấn đề
chính trị gây tranh luận ở hầu hết các quốc gia này. Nhưng hầu hết các
bộ máy chính trị trong các nền kinh tế thị trường hiện nay đã thừa nhận
yêu cầu có một “mạng lưới an toàn sinh” gồm các trợ cấp của chính phủ
và các dịch vụ xã hội cơ bản để bảo vệ những gia đình nghèo nhất – và
đặc biệt là trẻ em của các gia đình đó.
Mặc dù những chương trình này đã có tác dụng giảm bớt ảnh hưởng của đói
nghèo nhưng chúng vẫn chưa thực sự thành công trong việc xóa hẳn nghèo
đói. Do vậy những cuộc tranh luận về cách thức tốt nhất để giúp đỡ
những người nghèo vẫn còn phải tiếp tục.
Các chính sách tài khóa và tiền tệ của chính phủ
Chính phủ trong nền kinh tế thị trường đóng một vai trò quan trọng
trong việc xây dựng các điều kiện kinh tế để thị trường của các công ty
tư nhân có thể hoạt động một cách hiệu quả nhất.
Một trong những vai trò này là tạo ra một đồng tiền ổn định được chấp
nhận rộng rãi để hạn chế nhu cầu sử dụng các hệ thống trao đổi nặng nề
và không hiệu quả khác, và duy trì giá trị của đồng tiền đó thông qua
các chính sách hạn chế lạm phát (tức là tình trạng tăng giá của toàn bộ
hàng hóa và dịch vụ).
Trong lịch sử, các nền kinh tế thị trường đều từng trải qua các thời kỳ
mà mức giá tăng nhanh, hay có lúc là mức thất nghiệp cao, hoặc có thời
kỳ cả mức lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp đều cao.
May mắn là nhiều thời kỳ như vậy chỉ tương đối nhẹ và ngắn hạn, chỉ kéo
dài một năm hoặc ngắn hơn. Chỉ có số thời kỳ dai dẳng hơn và nặng nề
hơn nhiều, ví dụ như siêu lạm phát của Đức vào những năm 1920 và thất
nghiệp toàn cầu những năm 1930 được đơn giản biết đến là thời kỳ Đại
khủng hoảng.
Chỉ trong thập kỷ này các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính
sách của chính phủ mới xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn về các chính
sách ổn định hóa – được gọi là các chính sách tài khóa và tiền tệ – là
các chính sách mà các chính phủ có thể sử dụng để cố gắng giảm bớt
(hoặc lý tưởng là xóa bỏ) các giai đoạn như vậy.
Chính sách tài khóa sử dụng chi tiêu chính phủ và các chương trình thuế
để kích thích nền kinh tế quốc gia trong thời gian thất nghiệp cao và
lạm phát thấp, hoặc để xoa dịu nền kinh tế trong thời kỳ lạm phát cao
và thất nghiệp thấp. Để kích thích toàn bộ mức tiêu thụ, sản xuất và
việc làm, chính phủ phải tự chi tiêu nhiều hơn và giảm bớt thuế, thậm
chí cả khi nó phải chịu thâm hụt. (Sau đó, vào một thời điểm nào đó
trong tương lai, chính phủ sẽ phải thực hiện một khoản thặng dư bù đắp).
Để xoa dịu một nền kinh tế quá sôi động – một nền kinh tế trong đó mọi
người đang làm việc đều muốn công việc khác, và giá cả và chi tiêu tăng
lên nhanh chóng – chính phủ có một số lựa chọn nhằm giữ giá không vọt
lên quá cao. Chính phủ có thể cắt giảm chi tiêu, tăng thuế, hoặc cả hai
nhằm giảm tổng chi tiêu và mức sản lượng quốc gia.
Chính sách tiền tệ liên quan đến các thay đổi trong nguồn cung tiền
quốc gia và tính sẵn có của tín dụng. Để tăng chi tiêu trong thời gian
thất nghiệp cao và lạm phát thấp, các nhà hoạch định chính sách tăng
nguồn cung tiền để giảm tỉ lệ lãi suất (tức là giảm giá tiền), khiến
cho các ngân hàng có thể cho vay dễ dàng hơn. Điều này khuyến khích
người ta tiêu dùng nhiều hơn vì người dân có trong tay nhiều tiền hơn.
Tỉ lệ lãi suất thấp cũng kích thích các doanh nghiệp chi tiêu cho đầu
tư để mở rộng kinh doanh và thuê nhiều nhân công hơn.
Ngược lại, trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp, các nhà
hoạch định chính sách có thể xoa dịu nền kinh tế bằng cách tăng lãi
suất và từ đó giảm nguồn cung tiền và tính sẵn có của tín dụng. Do đó,
nền kinh tế sẽ có ít tiền chi tiêu hơn và mức lãi suất cao hơn, cả chi
tiêu và giá cả đều sẽ có xu hướng giảm xuống, hoặc tối thiểu là không
tăng nhanh. Kết quả là cả sản lượng đầu ra và việc làm đều có xu hướng
thu hẹp lại.
Trước những năm 1960, các chính sách tài khóa và tiền tệ đều không được
sử dụng rộng rãi để ổn định các chu kỳ kinh doanh lên và xuống của
thương mại quốc gia. Ngày nay, ngoại trừ một số trường hợp có các thảm
họa thiên nhiên và nhân tạo – như chiến tranh, lũ lụt, động đất và hạn
hán – các chính sách ổn định này đều có thể được sử dụng để tránh các
thời kỳ thất nghiệp và lạm phát nặng nề. Tuy nhiên, hiệu quả của các
chính sách này không chắc chắn trong trường hợp biến động kinh tế ngắn
và trung hạn hoặc trong hoàn cảnh cả lạm phát và thất nghiệp đều tăng.
Có một số nguyên nhân giải thích cho sự bất ổn này, trong đó có thời
gian cần thiết để nhận biết thực sự vấn đề là gì, để xây dựng các kết
hợp chính sách thích hợp nhằm giải quyết vấn đề, và cuối cùng là thời
gian chờ đợi các chính sách này mang lại kết quả. Một nguy cơ rất thực
là có thể trước khi các chính sách của chính phủ có hiệu lực thì vấn đề
ban đầu đã tự điều chỉnh hoặc chuyển hoàn toàn sang hướng khác….

Theo tapchikiemtoan