Nâng cao năng lực kiểm toán và tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước

Nâng cao năng lực kiểm toán và tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước
TCKT cập nhật: 21/12/2009

   Để xác định mục
tiêu và nội dung phát triển Kiểm toán Nhà Nước (KTNN) trong chiến lược cần phải
nhận thức và xác định rõ vị trí của KTNN trong bộ máy hành chính công quyền của
Việt Nam
đang trong quá trình cải cách và hoàn thiện; đánh giá đúng những việc đã làm và
kết quả đạt được; những kỳ vọng và sự mong đợi của nhân dân, của xã hội và đặc
biệt là việc lựa chọn bước đi, cách làm phù hợp với tiến trình phát triển nền
kinh tế thị trường , mở cửa hội nhập với kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vì vậy ,
cần đề cập và nhấn mạnh 2 quan điểm: Một
, quan điểm phát triển KTNN trở thành chủ lực hỗ trợ đắc lực , tin cậy
cho Quốc Hội , Hội đồng nhân dân trong các quyết định kinh tế – tài chính và
hoạt động giám sát tối cao; Đồng thời là công cụ đủ mạnh để kiểm kê, kiểm soát
việc quản lý và sử dụng ngân quỹ nhà nước , tài sản quốc gia . Hai là , phát triển KTNN cần đặt trong
tiến trình chung của đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới và hoàn thiện thể
chế , nền hành chính quốc gia, nền kinh tế thi trường , mở cửa và hội nhập. Vì
vậy cần lựa chọn nội dung , bước đi và cách làm cụ thể , phù hợp .

Trên cơ sở đó theo tôi , mục tiêu chung cho phát triển KTNN
đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 nên được xác định :

    Tăng cường năng
lực hoạt động , đảm bảo chất lượng , hiệu lực , nâng cao hiệu quả hoạt động của
KTNN ; xây dựng KTNN trở thành công cụ mạnh trong kiểm tra , kiểm soát ngân quỹ
nhà nước , tài sản quốc gia , phục vụ đắc lực cho các quyết định và hạt động
giám sát Quốc Hội, Hội đồng nhân dân về kinh tế tài chính.

Như dự thảo chiến lược đã nêu , mục tiêu cụ thể phát triển
KTNN cần được xác định trên cả 3 mặt : Năng
lực hoat động, hiệu quả kiểm toán và hiệu lực kiểm toán. Nhưng nên chăng cần
xác định những mục tiêu cụ thể hơn trong việc hỗ trợ , phục vụ Quốc hội và Hội
đồng nhân dân . Đồng thời làm rõ mục tiêu kiểm tra kiểm soát việc quản lý và sử
dụng ngân quỹ nhà nước và tài sản quốc gia.

Để đạt được mục tiêu của sự phát triển cần tập trung vào các
nội dung của chiến lược , nội dung công việc và bước đi, cách làm:

   -Thứ
nhất , phát triển KTNN trở thành công cụ của Nhà Nước pháp quyền XHCN, nhà nước
“Của dân, do dân và vì dân”
. Cần khẳng định :KTNN là 1 bộ phận trong hệ
thống tổ chức của Nhà nước pháp quyền, thực hiện quyền lực của nhân dân thông
qua hoạt động kiểm tra , kiểm soát và giám sát việc sử dụng NSNN, tài sản công
là những đồng tiền được đóng góp từ mồ hội công sức của dân cần có sự thống nhất
về nhận thức , quan điểm về sự phân công nhiệm vụ và quyền hạn giữa các cơ quan
hành pháp , tư pháp và lập pháp trong hoạt động kinh tế, tài chính để tạo ra sự
đồng thuận và sự ủng hộ , hợp tác cũng như việc giám sát của các ngành, các cấp
và toàn xã hội đối với hoạt động kiểm tra , kiểm soát chi tiêu NSNN, đấu tranh
chống tệ tham nhũng, lãng phí trong các cơ quan công quyền

    -Thứ hai,
minh bạch và công khai về tài chính là một trong các tiền đề, điều kiện quan
trọng để hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Theo những quy tắc
về minh bạch tài chính quốc gia của Quỹ tiền tệ thế giới, mỗi quốc gia cần có
một Cơ quan Kiểm toán Quốc gia hoặc một tổ chức tương đương để kiểm tra , xác
nhận tính đúng đắn , hợp pháp của một số liệu và chính sách tài chính trước khi
công bố. KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính độc lập của một Quốc gia , chịu
trách nhiệm đánh giá độ trung thực của báo cáo tài chính; tính kinh tế và hiệu
quả hoạt động quản lý; nếu những thông tin kiểm toán được công bố công khai
rộng rãi sẽ làm tăng thêm niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đồng
thời tạo điều kiện để xã hội và người dân được quyền tham gia giám sát . Bởi
vậy cần thể chế hóa chi tiết qui định về công khai kết quả kiểm toán và kết quả
thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán ( trừ những bí mật nhà nước qui định ).

    – Thứ ba,
để KTNN thất sự là một công cụ kiểm tra , kiểm soát có hiệu quả, điều cơ bản
nhất là phải đảm bảo được tính độc lập trong hoạt động KTNN.
Tính độc
lập là vấn đề cốt lõi của hoạt động KTNN, được hiểu trên hai góc độ : Kiểm toán
phải được hoàn thành độc lập, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ và được
đảm bảo sự độc lập thông qua các quy định , chế tài để tránh sự tác động trực
tiếp hay gián tiếp . Điều này có nghĩa : hoạt động của KTNN phải được chế định
trong đạo luật gốc là Hiến pháp, điều này cũng phù hợp với Tuyên bố Lima tại Hội nghị lần thứ
IX của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao(INTOSAI) : “ Cơ quan kiểm
toán tối cao chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách khách quan và
hiệu quả khi nó độc lập với đơn vị được kiểm toán và được đảm bảo chống lại các
ảnh hưởng từ bên ngoài”.

    – Thứ tư,
để nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN, KTNN không chỉ dừng lại ở kiểm toán
báo cáo tài chính và kiểm toán tuan thủ mà cần triển khai và đẩy mạnh loại hình
kiểm toán hoạt động
. Qua kiểm toán hoạt động sẽ có điều kiện xác định
tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong hoạt động thu – chi tài chính nhà nước
và những thất thoát do chi sai mục đích, sai chế độ cũng như khuất tất trong
quyết định đầu tư hoặc thực hiện chương trình, dự án… Đồng thời , cần thiết
triển khai kiểm toán trách nhiệm kinh tế đối với cán bộ lãnh đạo và ngườ đứng
đầu cách Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước hoặc Nhà nước nắm cổ phần chi phối.
Thực tế cho thấy đây là một trong những biện pháp phòng chống gian lận và tham
nhũng rất có hiệu quả. Kết quả kiểm toán các hoạt động kinh tế của đơn vị trong
nhiệm kỳ của cán bộ lãnh đạo được các cấp quản lý lấy làm cơ sở để đánh giá ,
bố trí và sử dụng cán bộ , thậm chí cách chức , bãi miễn hoặc truy tố trước
pháp luật nếu cán bộ đó có sai phạm.

    – Thứ năm,
chức năng của KTNN là kiểm toán đối với mọi cơ quan tổ chức quản lý , sử dụng
ngân sách , tiền và tài sản nhà nước
; nhưng trên thực tế do hạn chế về
nhân lực nên hàng năm chỉ mới tiến hành kiểm toán được khoảng trên 30% số NSNN
cấp tinh thành phố , báo cáo tài chính của khoảng 20% số bộ , ngành ở Trung
ương và cũng mới chỉ thực hiện thẩm định, kiểm tra một sô nội dung của báo cáo
quyết toán NSNN… Bản thân KTNN vẫn chưa thể tự trang trải toàn bộ kinh phí hoạt
động , vẫn có trường hợp phải nhờ vả vào các đơn vị được kiểm toán về phương
tiện đi lại, về chỗ nghỉ trong quá trình kiểm toán… Điều đó ít nhiều ảnh hưởng
đến việc đảm bảo yêu cầu độc lập và khách quan trong hoạt động kiểm toán .

   Để nâng cao chất
lượng kiểm toán , đảm bảo thi hành đầy đủ các qui định của Luật KTNN đòi hỏi
phải bổ xung thêm cán bộ, kiểm toán viên , nhất là những chuyên gia giỏi ở các
lĩnh vực mà KTNN co trách nhiệm kiểm toán. Đồng thời, Nhà nước cần đảm bảo kinh
phí đầy đủ cho các hoạt động kiểm toán, giảm dần và tiến tới độc lập cơ bản
kinh phí, hạn chế tối đa việc nhờ vả các đơn vị được kiểm toán.

    – Thứ sáu,
khẩn trương khôi phục và tạo lập hệ thống kiểm soát nội bộ trong từng cơ quan
,
từng tổ chức, đảm bảo mọi quy trình nghiệp vụ, quy trình hoạt động , đặc biệt
các quy trình lien quan đến tài sản , ngân quỹ ; chọn lựa , bổ nhiệm, sắp xếp
nhân sự… được quy định chặt chẽ hợp lý, được tuân thủ nghiêm ngặt. tăng cường
kiểm tra , thanh tra việc thực hiện chế độ của công chức , khuyến khích và tạo
điều kiện cho mọi người phát huy quyền làm chủ theo pháp luật, phát hiện và đấu
tranh với hiện tượng vi phạm, nhũng nhiễu trong quản lý tài chính nhà nước

    – Thứ bảy,
cần đảm bảo và tôn trọng tối đa tính độc lập của KTNN,
đặc biệt là
trong quyết định kế hoạch kiểm toán và tiến hành các hoạt động kiểm toán . Tính
độc lập là vấn đè cốt lõi và xương sống của hoạt động kiểm toán , được hiểu
theo cả hai khía cạnh : Kiểm toán phải hoàn thành độc lập , khách quan, vô tư
trong khi thực hiện nhiệm vụ và phải đảm bảo sự độc lập bằng các qui định, các
chế tài để tránh mọi sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi tiến hành hoạt
động nghiệp vụ , kiểm toán có thể tiếp cận đày đủ các baengf chưng và nguồn gốc
thong tin; vô tư và khách quan trong thu thập xem xét, đánh giá thong tin  , từ đó có những kết luận , xác nhận tin cậy
về thực trạng hoạt động kinh tế tài chính, về sự đầy đủ và chính xác của thong
tin. Hoạt động kiểm toán và kết quả kiểm toán làm yên long những người sử dụng
thong tin kế toán, sử dụng kết luận của kiểm toán. Đó là những kết luận có bằng
chứng được đánh giá. Hộ đồng dân tộc và các Ủy ban Quốc hội, Ban kinh tế Ngân
sách, các ban của hội đồng nhân dân hoàn toàn yên long và có căn cứ pháp lý để
thảo luận, đưa ra nghị quyết về những vấn đề kinh tế – tài chính . Tất nhiên
các kết luận của kiểm toán cần được đánh giá là không có dấu hiệu thiên vị,
không phiến diện thiếu căn cứ , thiếu khách quan hoặc mang tính chủ quan võ
đoán… Cần có cơ chế đảm bảo và kiểm tra tính độc lập , khách quan của từng kiểm
toán viên trong mỗi cuộc kiểm toán.

    – Thứ
tám,đảm bảo độ tin cậy của thông tin do kiểm toán xác nhận và cung cấp
. Để
Quốc hội có căn cứ thảo luận và quyết định, thực hiện các hoạt động giám sát
đòi hỏi phải có đủ những tư liệu thông tin tối thiểu cần thiết. Thông tin cung
cấp cho quốc hội phải minh bạch và có độ tin cậy cao. Trước hết là các thông
tin về chiến lược và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, định hướng tài chính
ngân sách , những ngân sách về đánh giá trung hạn, nguồn thu và nhiệm vụ chi.
Tăng cường tính minh bạch của ngân sách trong trong giai đoạn lập dự toán , đặc
biệt là các cơ sở dữ liệu và tiêu chí dùng cho việc dự tính các nguồn thu và
nhiệm vụ chi. Sớm chuyển sang áp dụng kế toán dồn tích thay cho phương pháp kế
toán thực thu thực xuất quỹ hiện nay, phản ảnh xác thực hơn tình hình tài chính
quốc gia và ngân sách nhà nước theo nguyên tắc thừa nhận quyền và nghĩa vụ ngân
sách gắn với năm ngân sách, hoàn toàn không phải là số thực nhập và thực xuất
quỹ. Số liệu cung cấp cho Quốc hội phải có xác nhận và đánh giá của cơ quan KTNN,
phải đạt độ tin cậy cao nhất có thể

 
Theo PGS.TS. Đặng Văn Thanh ( Tạp chí Kiểm toán )