Phân tích tài chính các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
Phân tích tài chính các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành |
TCKT cập nhật: 11/11/2006 | |
Hoạt động kinh doanh lữ hành có nhiều đặc điểm khác biệt so với hoạt động kinh doanh của các ngành sản xuất vật chất, từ đó dẫn đến đặc điểm hoạt động tài chính của các doanh nghiệp lữ hành cũng khác biệt so với các ngành sản xuất vật chất. Để đánh giá đúng tình hình tài chính các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, theo chúng tôi, nội dung phân tích bao gồm: Thứ nhất, Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp: Cấu trúc tài chính phản ánh cơ cấu về tài sản (TS), cơ cấu nguồn vốn (NV) và mối quan hệ cân bằng cấu trúc TS và cấu trúc NV của doanh nghiệp. Phân tích cấu trúc tài chính là phân tích khái quát tình hình đầu tư và huy động vốn của doanh nghiệp, chỉ ra các phương thức tài trợ TS để làm rõ những dấu hiệu về cân bằng tài chính. Nội dung phân tích cấu trúc tài chính bao gồm: phân tích cấu trúc TS và phân tích cấu trúc NV.
Phân tích cấu trúc TS cho thấy mức độ biến động của từng loại TS trong tổng TS; Trên cơ sở đó, nhận ra khoản mục nào có sự biến động lớn để tập trung phân tích và tìm nguyên nhân. Mặt khác, còn phải tìm hiểu xu hướng biến động các loại TS để đánh giá mức độ hợp lý của việc đầu tư. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp lữ hành thường ưu tiên đầu tư cho TS cố định: xây dựng khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi giải trí, mua sắm phương tiện vận chuyển … Do đó, cấu trúc TS của các doanh nghiệp này có đặc điểm là TS cố định chiếm tỷ trọng rất lớn từ 70-85% tổng giá trị TS của doanh nghiệp. Phân tích cấu trúc TS cần quan tâm đến đặc điểm này. Tính hợp lý là TS cố định phải chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng lên. Thứ hai, phân tích cân bằng tài chính: Cân bằng tài chính là sự cân bằng giữa tài sản với nguồn tài trợ tương ứng của nó. Mối quan hệ trong trường hợp này thể hiện qua các phương thức, chính sách tài trợ TSCĐ và TSLĐ. Chỉ tiêu phân tích: vốn lưu động ròng (VLĐR), nhu cầu VLĐR và ngân quỹ ròng (NQR). VLĐR được xác định là phần chênh lệch giữa TSLĐ và ĐTNH với nợ ngắn hạn; hoặc VLĐR được tính là phần chênh lệch giữa NVTX với TSCĐ và ĐTDH. Còn nhu cầu VLĐR bằng (=) hàng tồn kho cộng (+) nợ phải thu của khách hàng trừ (-) nợ phải trả ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn). NQR là phần chênh lệch giữa VLĐR và nhu cầu VLĐR. Nếu VLĐR âm liên tục qua các năm thì doanh nghiệp sẽ mất cân bằng tài chính, tình hình và khả năng thanh toán sẽ gặp khó khăn; Tuy nhiên, để có đánh giá đầy đủ hơn cần thông qua chỉ tiêu NQR. Nếu NQR âm, có nghĩa là doanh nghiệp phải huy động các khoản vay ngắn hạn để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR và tài trợ cho TSCĐ; cân bằng tài chính kém an toàn và bất lợi cho doanh nghiệp. Nếu NQR dương thể hiện một cân bằng tài chính rất an toàn vì doanh nghiệp không phải vay để bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR. Hoạt động kinh doanh lữ hành không có tồn kho, không có sản phẩm dự trữ cho tiêu thụ, không có sản phẩm dở dang; quá trình sản xuất cũng đồng thời là quá trình tiêu thụ. Mặt khác, hoạt động cung cấp dịch vụ lữ hành phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của khách hàng, không qua trung gian mua bán, doanh thu cung cấp dịch vụ phần lớn được khách hàng thanh toán bằng tiền, nên nợ phải thu của khách hàng các doanh nghiệp lữ hành chiếm tỷ trọng thấp trong tổng tài sản lưu động. Doanh thu bằng tiền thu được sẽ được tiếp tục chi ra cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo và được luân chuyển liên tục. Do đó, ở các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành thông thường tài sản lưu động chiếm tỷ trọng thấp dẫn đến các chỉ tiêu về VLĐR, nhu cầu VLĐR, cũng như NQR thông thường là thấp hơn các ngành sản xuất vật chất khác. Tại nhiều thời điểm khác nhau VLĐR, cũng như NQR có thể âm nhưng doanh nghiệp không phải quá khó khăn trong vấn đề thanh toán như các doanh nghiệp sản xuất vật chất khác. Do vậy, khi phân tích cấu trúc tài chính, phân tích cân bằng tài chính thông qua chỉ tiêu VLĐR và NQR cần lưu ý đặc điểm này để có đánh giá đúng thực trạng. Thứ ba, phân tích hiệu quả hoạt động: – Phân tích hiệu quả kinh doanh: – Phân tích hiệu quả tài chính:
Với T là tỷ suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Hay ROE = ROA x (1-T) x (1+ Đòn bẩy tài chính). Trong đó, đòn bẩy tài chính = Nợ phải trả/NVCSH. ROE chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố: hiệu quả kinh doanh, khả năng tự chủ về tài chính và độ lớn đòn bẩy tài chính. Hoạt động kinh doanh lữ hành ở nước ta chịu ảnh hưởng bởi tính mùa vụ, tính mùa vụ được thể hiện rất rõ rệt; thời tiết trong năm được chia thành hai mùa là mùa khô và mùa mưa; hoạt động kinh doanh lữ hành phần lớn diễn ra trong mùa khô, kết quả hoạt động kinh doanh lữ hành phần lớn mang lại cho doanh nghiệp vào mùa khô, kết quả hoạt động của mùa mưa rất thấp. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh, hiệu quả tài chính giữa các kỳ có ảnh hưởng bởi tính mùa vụ. Do đó, khi phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp lữ hành giữa các kỳ thì cần phải quan tâm đến tính thời vụ để có đánh giá hợp lý hơn. Thứ tư, phân tích rủi ro kinh doanh: Trong hoạt động kinh doanh vấn đề rủi ro đều có khả năng xảy đối với hoạt động của doanh nghiệp, thông thường doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn, sự biến thiên của kết quả và hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, có thể phân tích rủi ro kinh doanh thông qua độ biến thiên của của các chỉ tiêu kết quả hay hiệu quả kinh doanh, thông qua đòn bẩy kinh doanh, đòn cân định phí. Hoạt động kinh doanh lữ hành mang tính tổng hợp gồm nhiều thành phần tạo thành từ việc lập tour lữ hành đến vận chuyển, lưu trú, phục vụ ăn, uống, vui chơi đến giải trí trong một quy trình khép kín. Dịch vụ lữ hành được cung cấp cho du khách ở nhiều khâu, diễn ra ở những khoảng thời gian và không gian khác nhau. Thời gian và không gian cung cấp dịch vụ cho từng đối tượng là khác nhau, doanh thu, chi phí, giá thành của từng tour cũng khác nhau. Do đó, việc phân tích rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp lữ hành phù hợp nhất là phân tích rủi ro kinh doanh thông qua mức độ biến thiên của các chỉ tiêu phản ánh kết quả hay hiệu quả kinh doanh; phân tích rủi ro kinh doanh thông qua mức độ phân bổ giữa biến phí và định phí. – Phân tích rủi ro kinh doanh qua mức độ biến thiên của các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh như: doanh thu, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế; của hiệu quả kinh doanh: (các chỉ tiêu phản ánh tỷ suất sinh lời trên doanh thu, tỷ suất sinh lời trên tài sản, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu). Theo quan điểm phân tích thống kê, người ta thường sử dung phương sai để đánh giá tính bấp bênh của một đại lượng, độ biến thiên của một chỉ tiêu. Để xem xét độ biến thiên của một chỉ tiêu người ta dùng phương sai để thể hiện và phương sai sẽ được tính bằng bình phương các độ lệch của chỉ tiêu nghiên cứu với giá trị trung bình của nó. Mặt khác, để chỉ tiêu có giá trị tương ứng và phù hợp trong nghiên cứu và đơn vị tính toán, người ta còn dùng chỉ tiêu độ lệch tiêu chuẩn và được tính bằng căn bậc hai của phương sai. Nguyên tắc đánh giá rủi ro kinh doanh qua độ biến thiên: Ở mức độ hoạt động và quy mô tương tự nhau, phương án (doanh nghiệp) nào có phương sai hoặc độ lệch tiêu chuẩn của một chỉ tiêu tài chính nhỏ hơn phương sai, độ lệch tiêu chuẩn của chỉ tiêu tương ứng của phương án (doanh nghiệp) kia thì rủi ro của phương án (doanh nghiệp) này nhỏ hơn. Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hơn mức độ rủi ro khi kết quả hoặc sự kiện có giá trị trung bình giữa các phương án kinh doanh khác nhau, người ta sử dung hệ số biến thiên và được tính bằng tỷ số giữa độ lệch chuẩn với giá trị trung bình của chỉ tiêu tài chính. Phương án nào có hệ số biến thiên càng nhỏ thì phương án đó ít rủi ro hơn. – Ngoài ra, có thể phân tích rủi ro kinh doanh thông qua mức độ phân bổ giữa biến phí và định phí. Rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn của hiệu quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào sự phân bổ giữa biến phí và định phí. Trong các doanh nghiệp, định phí có ảnh hưởng đến đòn bẩy kinh doanh. Tại một mức hoạt động, tỷ lệ định phí trong tổng chi phí càng lớn thì đòn bẩy kinh doanh càng cao và rủi ro của doanh nghiệp càng lớn. Nhân tố về phân bổ định phí cũng còn được gọi là đòn cân định phí. Trong kết cấu chi phí kinh doanh lữ hành thì định phí chiếm tỷ trọng khá lớn, hay nói khác hơn là đòn cân định phí rất lớn. Các doanh nghiệp lữ hành thường rủi ro kinh doanh cao hơn các doanh nghiệp thương mại. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh lữ hành chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố, nếu hoạt động kinh doanh gặp khó khăn thì sẽ không thu hồi được lượng vốn rất lớn đã được đầu tư, rủi ro kinh doanh sẽ rất lớn và cũng rất khó khăn khi chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác như các doanh nghiệp thương mại. Tóm lại, từ đặc điểm của hoạt động kinh doanh lữ hành, đặc điểm hoạt động tài chính của doanh nghiệp lữ hành, dẫn đến các doanh nghiệp lữ hành có đặc điểm phân tích tài chính riêng, khác biệt với các ngành sản xuất vật chất khác. Do đó, cần nghiên cứu đặc điểm phân tích tài chính của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành để phân tích và đánh giá tình hình tài chính của các doanh nghiệp này. Th.s Phạm Rin – |